Giảm đau sau phẫu thuật bao gồm
nhiều phương pháp khác nhau và đóng vai trò quan trọng trong việc giúp bệnh
nhân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, sớm hồi phục sau mổ.
1. Đau sau
phẫu thuật là gì?
Đau sau phẫu thuật là phản ứng sinh lý bệnh phức tạp do nhiều nguyên nhân
khác nhau thường biểu hiện trên lâm sàng bằng các dấu hiệu bất thường của hệ
thần kinh tự động,tình trạng rối loạn tinh thần hoặc thay đổi tính nết của
người bệnh do tổ chức bị phẫu thuật can thiệp và xuất hiện sau khi mổ. Mức độ
đau sau mổ phụ thuộc vào tính chất và mức độ phẫu thuật, kỹ thuật mổ và khả
năng chịu đựng của bệnh nhân. Thông thường, các phẫu thuật can thiệp bằng nội
soi thường đau ít hay thậm chí là không đau. Trong những trường hợp phẫu thuật
nặng hơn thường đau liên tục trong vài ngày đầu. Ngoài ra, mức độ đau sau phẫu
thuật còn phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Vị trí phẫu thuật: Phẫu thuật ngực
và bụng trên > phẫu thuật bụng dưới > phẫu thuật ngoại biên và phẫu thuật
bề mặt. Thời gian đau của các vị trí cũng khác nhau, đó là phẫu thuật ngực (4
ngày), phẫu thuật bụng trên (3 ngày), phẫu thuật bụng dưới (2 ngày), phẫu thuật
ngoại biên và phẫu thuật bề mặt (1 ngày);
Từng bệnh nhân: tùy thuộc theo
giới,lứa tuổi...
Đau sau mổ
làm hạn chế vận động của bệnh nhân ,ảnh hưởng đến tâm lí và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới việc chăm sóc vết thương cũng như tập hồi phục chức năng sau phẫu
thuật.
2. Các
phương pháp đánh giá mức độ đau sau phẫu thuật
Dùng thước EVA (Echelle visuelle
Analogue): Là loại thước có 2 mặt, chiều dài 10cm, được đóng kín ở 2 đầu. Ở mặt
không có số, một đầu ghi “không đau”, một đầu ghi “đau không chịu nổi”, trên
thước có con trỏ có thể di chuyển được để chỉ mức độ đau mà bệnh nhân cảm nhận
được. Mặt còn lại có chia vạch là 0 - 100, đầu 0 tương ứng với “không đau”, đầu
100 tương ứng với “đau không chịu nổi”. Đây là dụng cụ đơn giản nhất để đánh
giá mức độ đau. Bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc giảm đau khi giá trị đau từ
30 trở lên;
Dùng thang điểm số: Bệnh nhân tự nêu
một số tương ứng với mức độ đau mà họ cảm nhận, con số trong khoảng 0 - 100. Số
0 là bệnh nhân không đau, số 100 là bệnh nhân đau không chịu nổi;
Dùng thang chia mức độ: Thang có các
giá trị là 0 - không đau, mức 1 - đau mức độ ít, mức 2 - đau mức độ trung bình
và mức 3 - đau mức độ nhiều.
3. Vai trò
của giảm đau sau phẫu thuật
Giảm đau sau phẫu thuật là một biện
pháp điều trị mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân như:
Giúp bệnh nhân dễ chịu về thể xác và
tinh thần
Giúp người bệnh lấy lại trạng thái
cân bằng tâm - sinh lý
Nâng cao chất lượng điều trị: Giúp
vết thương chóng lành, giảm nguy cơ bội nhiễm vết thương sau mổ, vận động sớm
hơn, giảm nguy cơ tắc mạch, rút ngắn thời gian nằm viện
Giúp bệnh nhân sớm hồi phục sau mổ,
có thể tự chăm sóc bản thân
Người bệnh sớm tập phục hồi chức
năng
Tránh diễn tiến thành đau mạn tính
Mang ý nghĩa nhân đạo.
4. Các
phương pháp giảm đau sau phẫu thuật
Lựa chọn kỹ thuật giảm đau sau mổ
phụ thuộc vào mức độ đau, vị trí đau, đau khi nghỉ ngơi hay khi vận động, tiền
sử bệnh nhân, thời điểm tập phục hồi chức năng,... Các phương pháp giảm đau sau
phẫu thuật thường được áp dụng là:
Đường uống: Dùng thuốc giảm đau
không thuộc họ morphine. Ưu tiên dùng thuốc khi phục hồi nhu động ruột, thường
sử dụng cho bệnh nhân phẫu thuật về trong ngày. Bệnh nhân có thể sử dụng
paracetamol, kháng viêm không steroid (NSAID - tốt hơn paracetamol trong phẫu
thuật hàm mặt, xương khớp, sản khoa nhưng có nhiều tác dụng phụ), kết hợp
paracetamol và NSAID,... Việc sử dụng thuốc phải tuân thủ đúng theo chỉ định
của bác sĩ.
Dùng thuốc đường tiêm truyền : Đường
tĩnh mạch dùng các thuốc giảm đau không thuộc họ morphine (gồm paracetamol và
NSAID); đường dưới da dùng các thuốc thuộc họ morphine và đường tiêm bắp nên bỏ
vì gây đau sau khi tiêm và gây khối máu tụ sau tiêm do dùng thuốc chống đông
sau mổ. Liều lượng thuốc, loại thuốc, đường dùng và thời gian dùng thuốc cần tuân
thủ đúng chỉ định của bác sĩ.
Bơm thuốc qua catheter ngoài màng
cứng: Có tác dụng giảm đau tốt hơn dùng đường tĩnh mạch và đường dưới da. Có
thể chỉ sử dụng morphine hoặc kết hợp thuốc thuộc họ morphine tan nhiều trong
mỡ với thuốc tê và/hoặc clonidine. Loại thuốc và liều dùng phụ thuộc vào chỉ
định của bác sĩ cho từng trường hợp cụ thể.
Đặt catheter gây tê đám rối thần
kinh hoặc thân thần kinh: Áp dụng ở chi, thường đặt catheter bơm thuốc lặp lại
hoặc truyền liên tục để kéo dài thời gian giảm đau sau mổ.
Tê thấm : dung lidocaine gây tê tại
chỗ vết mổ
Dùng thuốc đường hậu môn: Loại thuốc
và liều dùng tuân thủ đúng chỉ định của bác sĩ.
Tất cả các phương pháp giảm đau đều
có ưu điểm và hạn chế. Bác sĩ cần cân nhắc lựa chọn phương pháp giảm đau sau
phẫu thuật phù hợp cho bệnh nhân.
Tại bênh viện Trẻ Em Hải Phòng hiện
nay chúng tôi đã thực hiện rất nhiều loại phẫu thuật ở các khoa : Khoa ngoại
tổng hợp với các phẫu thuật như : thoát vị bẹn,nang thừng tinh,tinh hoàn lạc
chỗ , u nang buồng trứng,u nang ống mật chủ ,lõm lồng ngực,hẹp phần nối bể thận
niệu quản ,cắt lách,teo thực quản bẩm sinh …; khoa ngoại chấn thương với các
phẫu thuật như:kết hợp xương chi thể,các khối u ,nối gân,vi phẫu mạch máu…;khoa
tai mũi họng với các phẫu thuật như : cắt Amidal,u nang giáp móng…;khoa răng
hàm mặt với các phẫu thuật như :nang xương hàm ,răng thừa ngầm ,phẫu thuật khe
hở môi vòm,phẫu thuật điêu trị gãy xương hàm bằng nẹp vít,phẫu thuật u vùng hàm
mặt….Khoa Gây mê hồi tỉnh bệnh viện Trẻ em Hải Phòng với đội ngũ bác sỹ gây mê
hồi sức có trình độ sau đại học và nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực gây mê
hồi sức trẻ em đã thực hiện nhiều loại gây mê phẫu thuật,các phương pháp giảm
đau (đường uống,đường truyền tĩnh mạch,gây tê dưới hướng dẫn siêu âm…) dựa trên
vùng phẫu thuật,đặc điểm lứa tuổi chúng tôi sử dụng phương pháp giảm đau đơn thuần hoặc phối hợp nhiều phương thức giảm
đau- giảm đau đa mô thức cho các bệnh nhi với mục đích giúp bệnh nhi có thể ăn
sớm,vận động sớm,không quấy khóc,nâng cao chất lượng cuộc sống…giúp hồi phục
sớm sau phẫu thuật.
Khoa Ngoại
tổng hợp