Tai
nạn do đuối nước có
thể xảy ra trong các trường hợp: Ngạt nước,
những người không biết bơi ngã xuống nước, hoặc trẻ em ngã cắm đầu vào chậu
nước hay bồn tắm; ngất đột ngột khi vừa tiếp xúc với nước; lặn sâu dưới nước
khi hết hơi không ngoi lên kịp bị ngạt; bơi quá mệt, cơ thể mất nhiệt do nước
lạnh, bị chuột rút rồi ngất đi… Hậu quả có thể dẫn tới các di chứng nặng nề
hoặc tử vong ở trẻ.
Chính
vì vậy, sơ
cứu đuối nước là một phần vô cùng
quan trọng để giảm tỷ lệ tử vong và di chứng sau đuối nước ở trẻ.
1.
Nguyên tắc cấp cứu tại chỗ ngạt nước, đuối nước
Nguyên
tắc này cần khẩn trương, đúng phương pháp với mục đích cấp cứu là giải
phóng đường thở và
cung cấp oxy cho nạn nhân. Do vậy, việc làm đầu tiên cần đưa nạn nhân ra khỏi
nước:
-
Nếu nạn nhân còn tỉnh và giãy giụa dưới nước, cần khẩn trương tìm cách đưa họ
lên bờ. Nếu không biết bơi ta phải tìm khúc gỗ, phao… ném xuống cho họ bám vào
để lên bờ hoặc chạy ngay đi tìm người có khả năng đến cứu.
-
Tuyệt đối không nhảy xuống nước nếu không biết bơi. Vì nạn nhân lúc này trong
tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu
nạn. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên
khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở.
-
Nếu nạn nhân bất tỉnh dưới nước (chỉ xuống cứu khi người cứu biết bơi). Nếu
không thì gọi người hỗ trợ hoặc dùng thuyền để ra cứu.
Ngay
sau khi đưa được nạn nhân vào bờ, cần tiến hành cấp cứu tại chỗ:
1.1.
Với trẻ lớn
-
Đặt nạn nhân ở tư thế nằm ngửa trên mặt phẳng cứng. Nếu bệnh nhân tím tái,
không thể tự thở, tim
ngừng đập (sờ mạch không có) và không có bất cứ
phản xạ nào thì phải ấn tim ngoài lồng ngực: Dùng hai tay chồng lên nhau đặt
ngay vào vị trí một nửa dưới xương ức và ấn tim với tần số ép khoảng 100 lần/1
phút, đồng thời phải khai thông đường thở bằng cách dùng gạc hay khăn vải móc
đờm dãi, dị vật khỏi miệng nạn nhân và hà hơi thổi ngạt, hô
hấp nhân tạo với phương pháp miệng
thổi miệng cho nạn nhân.
-
Nếu chỉ có một người tiến hành sơ cấp cứu, thì ấn tim ngoài lồng ngực 15 - 30
nhịp, sau đó hà hơi thổi ngạt 2 lần và tiếp tục lặp lại việc ấn tim ngoài lồng
ngực với chu kỳ 15 - 30 lần ấn tim, 2 lần hà hơi thổi ngạt.
-
Nếu có hai người cấp cứu thì một người ấn tim ngoài lồng ngực,
một người hà hơi thổi ngạt, kiên trì thực hiện cho đến khi nạn nhân hồi tỉnh
trở lại hoặc cho đến khi nạn nhân được đưa đến cơ sở y tế gần nhất.
1.2.
Với trẻ nhỏ:
-
Đặt trẻ nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có
còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không
di động tức là trẻ đã ngưng thở;
thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó trẻ vẫn chưa thở lại được hoặc
còn tím tái và hôn mê thì
xem như tim đã ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới
xương ức theo cách như sau:
+
Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường
nối hai đầu vú 1 đốt ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
+
Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1 - 8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau
(đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 đốt ngón tay.
Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo
tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi).
-
Vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này cho đến khi nạn nhân tự
thở lại được hoặc có sự giúp đỡ của nhân viên y tế. Việc cấp cứu này đôi khi
phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.
-
Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn
còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện
sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu. Quá trình
vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn nhân.
-
Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn,
đầu nằm nghiêng, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân
không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép
tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.
2.
Lưu ý khi cấp cứu người ngạt nước, đuối nước
-
Không được chậm trễ trong cấp cứu người bị đuối nước, thay vì tìm cách gọi xe
cấp cứu, tìm cho được đầy đủ các phương tiện cấp cứu... thì phải bằng mọi cách
và khả năng hiểu biết cấp cứu nạn nhân ngay.
-
Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách
xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ
thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà
chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết! Trong quá trình hồi sức
cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông,
hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông
có nồng độ loãng hơn máu).
-
Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh vì có thể làm gãy
xương sườn nạn nhân, nhất là trẻ nhỏ.
Với
ngạt nước, sơ cứu tại chỗ đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết
định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của
người bị nạn.
3.
Phòng ngạt nước, đuối nước như thế nào?
Ngoài
việc sơ cứu kịp thời phòng tránh đuối nước là một giải pháp tối ưu trong việc
giảm thiểu hậu quả.
Không
bơi, chơi ở những nơi gần sông, hồ… khi không có người lớn giám sát.
Những
nguyên tắc an toàn khi bơi:
+
Không nhảy cắm đầu ở những nơi không có chỉ dẫn
+ Không
tắm, bơi ở những nơi có nước sâu, chảy xiết, xoáy và không có người lớn biết
bơi & cứu đuối.
+
Không bơi khi trời đã tối, có sấm chớp, mưa.
+
Tuyệt đối tuân theo các bảng chỉ dẫn nguy hiểm.
+
Phải khởi động trước khi xuống nước.
+
Không ăn uống khi
đang bơi để tránh sặc nước.
+
Không dùng các phao bơm hơi.
+
Không đi tắm bơi lội ở ao hồ một mình mà không có người lớn biết bơi đi kèm.
Không
nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi
gặp nguy hiểm hay không. Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và
nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền. Không ăn no, không uống rượu
trước khi xuống nước.
Chỉ
đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát. Cần thực
hiện nghiêm túc về an toàn giao thông đường thủy như: An toàn về phương tiện,
có đầy đủ phao cứu sinh, áo phao, chở đúng số người quy định.
CNĐD. Lê Thị Thơ - Khoa Hô hấp